Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Rong biển Trường thay đổi Sa, nguồn lợi nằm chờ

Kết nối tự nhiên

Thu mẫu rong biển tại quần đảo Trường Sa.

Ở nước ta bây chừ, một số nhóm rong như: rong câu (Gracilaria), rong đông (Hypnea), rong mơ (Sargassum), rong mào gà (Laurencia), rong kỳ lân (Eucheuma, Kappaphycus)... Đã được nuôi trồng rộng rãi phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đây là một trong những ngành nghề mới, góp phần đáng kể làm thay đổi bộ mặt các vùng nông thôn, nhất là các vùng ven biển.

Quần đảo Trường Sa với khoảng 100 hòn đảo, đá ngầm và bãi san hô có nhiều loài rong biển nhưng các công trình nghiên cứu về rong biển Trường Sa còn rất ít, chủ yếu nghiên cứu về thành phần loài, phân bố và sinh lượng, khu hệ.... Còn nghiên cứu về nguồn lợi rong biển hầu như chưa có. Để có cơ sở khoa học trong phá hoang, sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn tài nguyên rong biển, đồng thời bổ sung tư liệu về nhóm nguồn lợi này ở nước ta, trong thời kì qua các nhà khoa học thuộc viện Tài nguyên và môi trường biển đã tiến hành nghiên cứu nguồn lợi rong biển quần đảo Trường Sa.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tại mười đảo thuộc quần đảo Trường Sa: Trường Sa Lớn, Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử Tây, Phan Vinh, Tốc Tan, Thuyền Chài, Đá Tây, Sinh Tồn và Đá Nam, các nhà khoa học đã xác định được 255 loài rong biển thuộc bốn ngành là khuẩn lam (Cyanophyta), rong đỏ (Rhodophyta), rong nâu (Phaeophyta) và rong lục (Chlorophyta). Trong đó, rong đỏ chiếm ưu thế hơn cả: 136 loài chiếm 53,3%, tiếp theo là rong lục: 69 loài chiếm 27%, khuẩn lam và rong nâu có số lượng loài bằng nhau: 25 loài chiếm 9,8%.

Rong biển ở quần đảo Trường Sa phân bố rất đa dạng và không đồng đều. Theo đó, sự phân bố địa lý (phân bố rộng) của rong biển tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa hoàn toàn không giống nhau. Số lượng loài tại các đảo ngả nghiêng từ 17 loài (đảo Phan Vinh) đến 127 loài (đảo Đá Tây), làng nhàng là 72,9 loài. Sự phân bố rộng của các loài rong biển ở đây hạp với quy luật phân bố của sinh vật thủy sinh. Hệ số tương đồng của các loài tại các đảo khác nhau động dao từ 0,102 (giữa Đá Nam và Tốc Tan) đến 0,677 (giữa Trường Sa và Nam Yết). Nguyên nhân chính của sự sai biệt này là vị trí địa lý giữa các đảo, tác động của con người và thiên nhiên.

Sự phân bố thẳng đứng (phân bố sâu) của rong biển tại quần đảo Trường Sa chỉ nằm trong giới hạn từ vùng triều trở xuống và tụ họp cốt ở vùng triều thấp. Một số loài có thể phân bố sâu đến 20m hoặc hơn. Trong số 255 loài rong biển đã phát hiện được tại quần đảo Trường Sa, có tới 72% số loài phân bố ở vùng triều và 28% loài phân bố ở vùng dưới triều. Cứ theo giá trị sử dụng của từng loài, các nhà khoa học đã phân loại rong biển tại quần đảo Trường Sa thành sáu nhóm sau: làm vật liệu chế biến keo carrageenan; làm vật liệu chế biến agar; làm dược liệu; làm thực phẩm; làm phân bón; làm rau xanh.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tại quần đảo Trường Sa có 62 loài rong có giá trị kinh tế, trong đó, một số loài có trữ lượng thiên nhiên ngay thức thì là: rong mơ (34 tấn), rong câu (9 tấn), rong guột (10 tấn), rong quạt (5 tấn), rong gai (9 tấn), rong đông (13 tấn), rong mào gà (15 tấn), rong sụn (30 tấn) và rong loa kèn (20 tấn).

Nghiên cứu nguồn lợi rong biển quần đảo Trường Sa không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn giúp các cơ quan quản lý tại quần đảo Trường Sa định hướng khẩn hoang nguồn tài nguyên quý này một cách hiệu quả, xúc tiến sự phát triển kinh tế từng lớp của các vùng hải đảo.

Bài và ảnh: TS Đàm Đức Tiến (viện Tài nguyên và môi trường biển)